10.000 giờ - Con số kỳ diệu của thành công
Để minh họa cho Quy tắc 10.000 giờ, Gladwell đã đưa ra nhiều ví dụ, trong đó có một nghiên cứu tại Học viện Âm nhạc danh giá của Berlin. Ở đây, các nhà tâm lý học phân những người chơi violin trong trường ra thành ba nhóm như sau:
- Nhóm 1: Những sinh viên có tiềm năng trở thành nghệ sĩ solo đẳng cấp thế giới;
- Nhóm 2: Các sinh viên ở mức “tốt”;
- Nhóm 3: Các sinh viên có vẻ sẽ không bao giờ chơi nhạc chuyên nghiệp và những người có ý định trở thành giáo viên âm nhạc trong hệ thống trường công.
Tất cả sinh viên sau đó đều được hỏi một câu hệt nhau: xuyên suốt quá trình rèn luyện trong toàn bộ sự nghiệp của mình, kể từ lần đầu tiên cầm cây vĩ cầm, bạn đã luyện tập bao nhiêu giờ đồng hồ?
Cả ba nhóm đều bắt đầu chơi ở độ khoảng 5 tuổi. Trong vài năm đầu khối lượng luyện tập là tương đương nhau. Sự khác biệt thực sự xuất hiện vào năm 8 tuổi. Những học sinh thuộc nhóm 1 bắt đầu luyện tập nhiều hơn những nhóm khác, và họ ngày càng chăm chỉ hơn theo thời gian. Đến khi bước vào tuổi hai mươi thì họ đã luyện tập có chủ đích miệt mài 10.000 giờ, trong khi nhóm 2 chỉ có tổng cộng 8.000 giờ và nhóm 3 chỉ có hơn 4.000 giờ.
Kết hợp thêm nhiều ví dụ khác từ Bill Gates hay The Beatles, Gladwell đưa ra kết luận: 10.000 giờ là con số kỳ diệu của thành công – mức thời gian cần thiết để đạt đến sự tinh thông thực sự.
Trong sách, Gladwell cũng đề cập: "Nghiên cứu đã kết luận rằng một nghệ sĩ âm nhạc nào đó có đủ năng lực để bước vào một trường âm nhạc đỉnh cao, thì thứ để phân biệt một nghệ sĩ trình diễn với những người khác chính là anh ta/cô ta làm việc chăm chỉ đến đâu".
Nhưng đó mới chỉ là bề nổi
Tuy nhiên, Anders Ericsson, giáo sư tâm lý học tại Đại học Florida – người đã đích thân tiến hành nghiên cứu này lại không nghĩ nghĩ vậy. Theo ông, Gladwell đã bỏ quên một biến số quan trọng không kém trong nghiên cứu của Ericsson: trình độ của giáo viên. Và Ericsson hẳn không vui với điều này.
Ericsson đồng ý luyện tập là quan trọng, và thực sự ông đã ngạc nhiên với kết quả của nghiên cứu trên về sự cách biệt giữa các sinh viên nhóm 1 với hai nhóm còn lại. Tuy nhiên nghiên cứu cũng gợi ý rằng ai đó có thể bỏ ra hàng nghìn giờ tập luyện và vẫn không đạt tới đẳng cấp cao – dù có cố tới đâu. Họ có thể bị bỏ xa bởi một người tập luyện ít hơn nhưng được chỉ dẫn tận tình, được ai đó vạch sẵn cho họ lộ trình phát triển. Và “ai đó” mà Ericsson muốn nói tới ở đây là các giáo viên.
Thứ mà Gladwell đã vô tình bỏ qua là vai trò của "luyện tập có chủ đích", mà trong nghiên cứu của Ericsson nhấn mạnh là luyện tập dưới sự dẫn dắt của một người hướng dẫn. Thật tốt khi có ai đó chỉ ra phải làm gì, làm ra sao và tiếp đến cần làm gì – chúng ta đều ước có những "người dẫn đường" như vậy. Những sinh viên may mắn đó sẽ trở nên vượt trội hơn so với phần còn lại, bất chấp luyện tập ít hơn.
Gladwell đã đáp trả thế nào?
Động thái đầu tiên, trong chuyên mục Ask Me Anything trên Reddit, Gladwell đã phản hồi rằng sự diễn giải hào nhoáng của quy tắc 10.000 giờ – rằng luyện tập 10.000 giờ chắc chắn sẽ thành công – là một sự hiểu lầm. Ông viết: “Có rất nhiều điều nhầm lẫn về Quy tắc 10.000 giờ mà tôi đã nói đến trong cuốn Những kẻ xuất chúng. Nó không áp dụng cho thể thao và việc rèn luyện không phải là điều kiện đủ để thành công. Tôi có thể chơi cờ 100 năm và không bao giờ có thể trở thành một đại kiện tướng. Cái tôi muốn truyền tải là khả năng tự nhiên đòi hỏi một sự đầu tư lớn về thời gian để nó được thể hiện ra. Thật không may, những ý tưởng phức tạp đôi lúc lại bị đơn giản hóa trong quá trình diễn đạt lại."
Trong bài đăng Complexity And The 10.000 Hours Rule đăng tải trên The New Yorker, Gladwell cũng viết: “Không ai đạt tới độ tinh thông trong một lĩnh vực mà thiếu đi tài năng thiên bẩm. Tôi đã làm rõ điều này trong cuốn sách, rằng thành công là tài năng cộng với sự chuẩn bị. Các nhà tâm lý học càng xem xét kỹ lưỡng hơn sự nghiệp của các nhân tài bao nhiêu, thì vai trò của tài năng bẩm sinh càng nhỏ bé hơn và vai trò của sự chuẩn bị lại to lớn hơn bấy nhiêu".
Điều mà Gladwell muốn nói ở đây là gì? Tài năng cần được nuôi dưỡng trong quá trình luyện tập, và cần một con số đủ lớn để đánh thức và vận dụng tài năng đó. Với tinh thần như vậy, ông xem xét cuộc đời của “những kẻ xuất chúng” và bất ngờ thay, con số 10.000 giờ xuất hiện trở đi trở lại. Nhưng chừng đó chưa đủ để biến 10.000 giờ thành một quy tắc, Gladwell thừa nhận.
Các cách hiểu sai về Quy tắc 10.000 giờ
Sai lầm #1: 10.000 giờ là con số của sự vĩ đại, bất chấp năng khiếu tự nhiên của một cá nhân.
Sai lầm #2: Chỉ cần tập luyện đủ nhiều, ai cũng có thể đạt tới trình độ tinh thông của một lĩnh vực. Tất cả chỉ là vấn đề thời gian.
Sai lầm #3: Mốc 10.000 giờ là “điểm bùng phát”, tức phải vượt qua nó người ta mới thực sự đạt tới trình độ cao của lĩnh vực đang theo đuổi.
Và danh sách này sẽ còn dài mãi, nếu Quy tắc 10.000 giờ của Gladwell tiếp tục được lan truyền sai cách. Vậy thì phải hiểu thế nào mới đúng, câu trả lời ngay dưới đây.
Cách hiểu đúng về Quy tắc 10.000 giờ
1. Từ tốt tới vĩ đại cách nhau hai từ “luyện tập”
Nói cách khác, trong một nhóm những kẻ xuất chúng, người vượt trội hơn cả sẽ là người làm việc chăm chỉ hơn. Tuy vậy, độ hiệu quả trong tập luyện của các cá nhân khác nhau là khác nhau – sẽ có những người sử dụng thời gian của họ hiệu quả hơn, do đó thành công hơn mặc dù luyện tập ít hơn.
Xem thêm: Tận dụng triệt để thời gian làm việc với Nguyên tắc Pareto.
Đó là bản chất của ý tưởng về Quy tắc 10.000 giờ. Các nghiên cứu về Bill Gates, The Beatles của Gladwell chỉ giúp chỉ ra một điều: họ – những kẻ xuất chúng tập luyện nhiều hơn mặt bằng chung rất nhiều, và hầu hết đều cần ít nhất 10.000 giờ để thực sự tỏa sáng. Bởi vậy, 10.000 giờ chỉ nên được xem như một con số tương đối, ta không nên tuyệt đối hóa nó.
2. Thành công = Tài năng + Sự chuẩn bị (+ May mắn).
Càng lên tới trình độ cao hơn, mức ảnh hưởng của tài năng càng ít, thay vào đó tầm quan trọng của sự chuẩn bị là yếu tố quyết định. Tài năng có thể khiến bạn nổi bật, nhưng tập luyện mới đưa bạn tới đỉnh cao.
Bên cạnh đó, như Gladwell đã chỉ ra trong cuốn sách thì những kẻ xuất chúng đều tình cờ được tiếp cận hàng loạt các cơ may. Họ có tài năng xuất chúng, thừa chăm chỉ nhưng cũng may mắn không kém. Ta đều đồng ý Bill Gates là một thiên tài, đã lập trình trên dưới 10.000 giờ vào năm ông rời Harvard để khởi nghiệp; nhưng Gladwell cũng chỉ rõ cha của Gates là một luật sư giàu có, và mẹ thì là con gái một chủ nhà băng phát đạt. Thành công của Bill Gates là minh chứng điển hình cho tài năng, tập luyện và may mắn phụ trội được kết hợp đồng thời.
Dù diễn giải chi tiết tới thế, công thức gốc cho thành công của Gladwell nêu ra trong cuốn sách là gì? “Thành công = Tài năng + Sự chuẩn bị”, rõ ràng ông đã bỏ qua hàng loạt các biến số quan trọng nhất, trong đó có yếu tố may mắn. Ông đã diễn giải không nhất quán, đó là lý do tại sao tôi thêm “May mắn” vào công thức thành công của Gladwell.
3. Quy tắc 10.000 giờ không thể áp dụng với mọi lĩnh vực.
Trong một nghiên cứu mới của Đại học Princeton phân tích tổng hợp 88 nghiên cứu về luyện tập có chủ đích, người ta phát hiện ra việc luyện tiệp chỉ tạo ra 12% sự khác biệt khi thực hành trong các lĩnh vực khác nhau. Cụ thể như sau:
- Trong các trò chơi, luyện tập tạo nên 26% sự khác biệt;
- Trong âm nhạc, khác biệt 21%;
- Trong thể thao, khác biệt 18%;
- Trong giáo dục, khác biệt 4%;
- Trong chuyên môn, chỉ 1% khác biệt.
Lời giải thích hợp lý nhất cho sự phụ thuộc vào lĩnh vực có lẽ được tìm trong cuốn sách có tên gọi Khoảnh khắc bừng tỉnh của tác giả Frans Johansson. Trong đó, Johansson lập luận rằng luyện tập có chủ đích chỉ là một yếu tố phỏng đoán sự thành công trong các lĩnh vực mà có kết cấu siêu ổn định. Ví dụ, trong tennis, cờ, và nhạc cổ điển, các quy tắc không bao giờ thay đổi, vì vậy bạn có thể học cho đến khi trở nên xuất sắc.
Nhưng trong các lĩnh vực kết cấu ít ổn định, chẳng hạn như kinh doanh và nhạc rock and roll, không có quy tắc nào cả. Richard Branson đã bắt đầu kinh doanh đĩa nhạc nhưng nhanh chóng phát triển sang các ngành ngoài: Tập đoàn Virgin Group có 400 công ty và đưa con người vào vũ trụ. Hay một ban nhạc như Sex Pistols, đã nhanh chóng thành công trên thế giới dù thành viên Sid Vicious thậm chí gần như không thể chơi bass. Vì thế, việc trở thành bậc thầy không chỉ gói gọn trong việc luyện tập.
Lỗi tại ai?
Cuối cùng, Quy tắc 10.000 giờ chỉ nên được nhìn nhận như một góc nhìn khác về thành công, giống cách mà Gladwell đã nêu rõ trong tựa đề cuốn sách của mình. Đúng như ông nói, những ý tưởng phức tạp đôi lúc lại bị đơn giản hóa trong quá trình diễn đạt lại.
Vậy thì trách nhiệm thuộc về ai, Gladwell hay độc giả? Dù câu trả lời là gì, cũng may là tác giả của Quy tắc 10.000 giờ đã tự vạch trần những kẻ muốn vạch trần ông.
Có lẽ nghiên cứu thành công không nên được xây dựng như những công thức nêu trên, và ta chỉ nên xem Quy tắc 10.000 giờ là một phát hiện mới mẻ về thành công – chứ không phải công nhận nó tuyệt đối.