The Last Dance – bộ phim tài liệu về Michael Jordan được Netflix công chiếu hồi 2020 – đã truyền cảm hứng cho hàng loạt người nổi tiếng đặt hàng các bộ phim tiểu sử của riêng họ. Trong một bài viết trên tờ The New York Times mới đây, tác giả Calum Marsh tiết lộ nhiều góc khuất và đặt ra nhiều nghi vấn cho hiện trạng này: Liệu người xem có đang bị dắt mũi bởi chiêu trò PR hình ảnh bản thân theo hình thức nghệ thuật này?
Nếu bạn hỏi tuổi trẻ của Steve Jobs đáng giá bao nhiêu, tôi khá chắc ông sẽ trả lời là vô giá. Thất học, thất nghiệp, sống du thủ du thực, ăn cơm từ thiện qua bữa, ngủ trên sàn nhà, bạn có muốn tôi liệt kê hết thời thanh niên oanh liệt của nhà sáng lập Apple không?
Nhưng cũng chính ở câu chuyện về Jobs trẻ tuổi đó, mỗi độc giả đều sẽ lĩnh hội những bài học riêng: người trẻ đọc về ông sẽ tìm thấy niềm an ủi, tiếp sức; người trung niên tìm thấy niềm cảm hứng, lòng can đảm và cuối cùng, người già tìm thấy sự mãn nguyện cùng cảm giác bồi hồi khi nhớ về một thời son vàng đã qua.
Tua ngược thời gian về một thế kỷ trước. Không, thêm tám năm nữa đi. Được rồi, năm 1905, Einstein đã xuất bản một loạt các bài báo công bố các nghiên cứu của mình – những ấn phẩm thực sự đã góp phần vào công cuộc đổi mới ngành vật lý – do vậy, nhiều người gọi đó là “năm kỳ tích” của Einstein.
Nhưng với tác giả Ethan Siegel, trong một bài viết trên Big Think, cho rằng “những tiến bộ đáng kể đó khó có thể nảy ra từ chân không, hoặc Einstein theo một cách nào đó không thể nào là người ngoài cuộc trong lĩnh vực vật lý.”
Nói đơn giản, Ethan tin rằng: Einstein không phải dạng “thiên tài đơn độc”, thu mình trong phòng rồi tự thân phát triển nên Thuyết tương đối, và ý tưởng về lý thuyết đó cũng không rơi từ trên trời xuống đầu ông như quả táo của Newton. Trái lại, “cha đẻ của vật lý hiện đại” là một thiên tài biết đứng trên vai những người khổng lồ, đồng thời cộng tác với nhiều bộ óc kiệt xuất khác cùng thời, tạo nên một cộng đồng tài năng bổ trợ lẫn nhau.
Thiếu vắng họ, các ý tưởng của ông dù tuyệt vời tới mấy, có thể sẽ không đi tới đâu cả.
Là một trong số hiếm hoi những tỷ phú tự thân vào thời của mình, người ta kể lại rằng vào lúc qua đời năm 1956, Thomas John Watson, Sr. – cha đẻ của IBM, được nhiều người kính cẩn xưng làm “người bán hàng vĩ đại nhất thế giới”.
Năm 1924, công ty Computing Tabulating Recording (CTR) được đổi tên thành International Business Machines, hay IBM như chúng ta biết tới ngày nay. Dưới sự lèo lái của thuyền trưởng Watson, IBM đã đạt được những kỷ lục ngoạn mục. Khẩu hiệu của công ty – “Think” (Tư duy) do ông nghĩ ra đến nay được coi là một trong những khẩu hiệu độc đáo và có ảnh hưởng nhất lịch sử công nghệ.
Và câu khẩu hiệu ấy được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc khủng hoảng năm 1929, khi thị trường chứng khoán sụp đổ.
Năm 1932, anh thợ mộc Ole Kirk Christiansen, con trai thứ mười trong một gia đình nghèo khổ ở Jutland, phía Tây Đan Mạch, bắt đầu làm đồ chơi bằng gỗ để kiếm sống sau khi bị mất việc do Đại khủng hoảng. Chẳng bao lâu sau thì vợ anh qua đời, để anh một mình gồng gánh khoản nợ cùng bốn cậu con nhỏ.
Nhân lúc rảnh rỗi, anh chế tác ra một con vịt gỗ cho con chơi để mình có thì giờ làm việc. Nhận thấy các con quá đỗi yêu thích chú vịt kia, anh đem nó vào sản xuất mà không biết rằng, đó chính là viên gạch đầu tiên kiến dựng nên đế chế đồ chơi khổng lồ được nhắc tên trên tiêu đề kia.
Một số người chắc chắn có nhiều “giờ rảnh rang” hơn những người khác, nhưng hầu hết chúng ta đều có ít nhất một vài giờ “không biết làm gì”. Và theo Quy tắc 5 giờ, cách chúng ta chi tiêu những giờ đó có thể định hình sự khác biệt giữa người thành công và kẻ tầm thường.
Mỗi người chúng ta đều có ít nhất một người bạn với cái dạ dày không đáy, mỗi lần đi ăn buffet là chủ quán chỉ có lỗ chứ chẳng thấy lời. Tuy nhiên, phần lớn chúng ta đều chỉ ăn ở mức vừa đủ, vì nếu bạn cố ăn cho đẫy, bạn sẽ va phải thứ mà các nhà kinh tế học gọi là Quy luật lợi ích cận biên giảm dần.
Những miếng thịt đầu tiên ngon tuyệt cú mèo, nhưng đến miếng thứ hai mươi, cảm giác thỏa mãn sẽ được thay bằng chướng bụng, ngán ngẩm. Một ông chủ quán buffet sẽ không giờ thiệt nhờ vào quy luật đó, rằng mỗi chúng ta đều biết bất cứ thứ gì dư thừa quá sẽ đem lại khổ đau – ngay cả những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống.
Và đó cũng chính là nền tảng của triết lý Lagom từ Thuỵ Điển – chủ đề của bài viết hôm nay. Nó có thể thay đổi cách bạn nhìn nhận cuộc sống của mình một cách tích cực hơn, tất nhiên là với một cái giá nho nhỏ – mà đọc dưới đây sẽ rõ.
Cuộc sống là 10% những gì xảy đến với bạn là 90% cách bạn phản ứng với nó, chắc hẳn mỗi độc giả ở đây đều từng nghe qua câu nói này. Mọi người hạnh phúc đều giống nhau, nhưng mỗi người đều khổ theo một kiểu riêng. Trong khi Arthur Schopenhauer khuyến nghị con người kiềm chế ham muốn và thoái lui khỏi cuộc sống thì người tự nhận là học trò của ông, Friedrich Nietzsche cho rằng cứ coi cuộc sống như một vở hài kịch và chấp nhận những bi kịch trong đó.
Phản ứng tốt và dễ dàng nhất, theo lời chủ nhân bài viết gốc, Joshua Foa Dienstag, có thể là một nụ cười thật tự tin. Trong bài dịch dưới đây, tác giả sẽ tường thuật lại từ đầu tới cuối cuộc tranh luận ly kỳ và đáng đọc giữa hai bộ não kiệt xuất mà giới triết học từng chứng kiến về một vấn đề muôn thuở nhưng vẫn chưa được giải đáp thấu đáo: Nếu cuộc đời đầy rẫy đau khổ tới vậy, điều gì khiến cuộc đời này đáng sống?
Khi H. G. Wells lần đầu xuất bản Người vô hình (The Invisible Man) vào năm 1987, chỉ riêng tựa đề đã đảm bảo cho thành công của nó. Sức hấp dẫn của cuốn sách tới từ một trong những ước mơ muôn thuở của con người – khả năng tàng hình – đồng nghĩa có thể thoát khỏi ánh mắt của người khác theo đúng nghĩa đen, được giải phóng khỏi những áp lực xã hội và có quyền tự do bước vào bất cứ không gian mở nào mà không gặp trở ngại.
Một người vô hình có thể nghe lén những điều thầm kín bạn chia sẻ với đứa bạn thân, có thể lặng lẽ theo dõi hành vi kỳ quặc của bạn lúc một mình và thản nhiên làm bất cứ gì hắn muốn trước hàng trăm chiếc camera. Theo nhiều cách, kẻ vô hình hiển nhiên tự do hơn rất nhiều.
Nhưng sự tự do đó cũng đi kèm một cái giá đắt đỏ mà nhân vật Griffin đã phải chịu, qua đó Wells để lại cho độc giả nhiều suy ngẫm về bài học đằng sau phép ẩn dụ bậc thầy này.
Có rất nhiều lợi ích để ta đọc sách nhiều hơn, nhưng có lẽ đây là thứ mà tôi tâm đắc nhất: Một cuốn sách hay là một cách mới để thẩm thấu những trải nghiệm trong quá khứ của bạn.
Như Patrick O’Shaughnessy từng nói, “Việc đọc thay đổi quá khứ.” Mỗi khi bạn học được một mô thức hay ý tưởng mới, nó giống như “phần mềm” trong não bạn được cập nhật. Tự nhiên, bạn có thể khởi chạy toàn bộ dữ liệu cũ trong một chương trình mới. Bạn nghiệm ra những bài học mới từ những khoảnh khắc cũ.
Lẽ đương nhiên, điều đó chỉ đúng khi bạn tiếp thu và nhớ được những ý tưởng cốt lõi từ những cuốn sách đã đọc. Kiến thức sẽ chỉ cộng dồn khi nó được lưu giữ. Nói cách khác, điều quan trọng không đơn giản là bạn đọc nhiều sách, mà là thu về nhiều hơn từ mỗi cuốn sách.
Tất nhiên bồi bổ kiến thức không phải lý do duy nhất để đọc sách. Đọc sách để giải trí hay thư giãn đều là một cách chi tiêu thời gian tuyệt vời, nhưng bài viết này sẽ nói về đọc để học. Với ý tưởng đó, tôi muốn chia sẻ một vài chiến lược đọc sách hiệu quả nhất mà tôi từng thử nghiệm qua.